Bài viết Chứng tâm khí hư suy trong đông y
thuộc chủ đề về Wiki How thời
gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm
nay, Hãy cùng Moki.vn tìm hiểu Chứng
tâm khí hư suy trong đông y trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn
đang xem bài viết : “Chứng tâm khí hư suy trong đông
y”
Đánh giá về Chứng tâm khí hư suy trong đông y
1. nguyên nhân bệnh:
tác nhân của chứng tâm khí hư suy phần thường xuyên là do lo lắng mệt nhọc tổn thương đến cơ thể, hoặc do tiên thiên bất túc, nên tâm khí vốn hư từ bé, hoặc sau thời gian trưởng thành thể lực suy kém, dương khí ngày càng hư suy, hoặc do ốm đau lâu ngày, khí huyết hư suy mà liên lụy đến tâm khí. Hoặc do chứng tý ở tâm, hoặc mắc một vài bệnh khác mà dùng thuốc hãm hạ quá mức làm tổn thương dương khí mà nảy sinh bệnh.
mặt khác do công năng của tâm thần hoạt động không bình thường dẫn đến tâm thần không yên, khí hoạt động vô lực làm cho sự lưu thông của huyết không thông suốt.
Chứng tâm khí hư suy thường gặp trong các bệnh như: Kinh quý, hung tý, bất mị, hư lao và điên chứng.
2. Triệu chứng lâm sàng:
Tâm hồi hộp, hay sợ hãi, đoản hơi, thiếu sức, hễ vận hành là mệt mỏi, vùng ngực thường khó chịu, tinh thần luôn mệt mỏi, tự ra mồ hôi, sắc mặt nhợt nhạt, lưỡi nhạt, rêu mỏng, mạch tế nhược…
3. Biến chứng:
Tâm là đại chủ của các tạng phủ trong cơ thể, về công năng sinh lý tâm chủ về thần minh và chủ về huyết mạch, cho nên biểu hiện của chứng tâm khí hư suy về phương diện tinh thần, ý thức, tư duy, bao gồm cả công năng thần trí và ngôn ngữ bị trở ngại. Thiên bản thần sách Linh Khu viết: “Tâm khí hư thì bi” “Thân thương thì sợ hãi” Vì vậy mà xuất hiện các chứng sợ hãi, hồi hộp không yên, thiếu ngủ, hay quên, mừng lo, rầu rĩ có khi muốn khóc, có khi cáu giận, có khi nói lảm nhảm một mình…
ngoài ra khi tâm khí bất túc làm tổn thương đến sự vận hành của huyết mạch mà xuất hiện các chứng khí huyết bất túc có khi cục bộ, nhưng có khi toàn thân, xuất hiện chứng tinh thần mỏi mệt, yếu sức, đoản hơi, ngực đầy khó chịu có khi đau ở vùng ngực, tự ra mồ hôi, miệng môi tím tái, sắc mặt trắng nhợt, lưỡi nhạt, mạch nhược…
Do tuổi tác, nam hay nữ, thể chất của người mắc bệnh khác nhéu nên bệnh chứng cũng biểu hiện khác nhau, nhưng chứng tâm khí hư suy thường gặp thường xuyên ở người tuổi cao, người ốm đau kéo dài thể lực suy kém, thường hay thiếu ngủ, hung tý, hồi hộp.
Đối với trẻ em thì phần nhiều do tiên thiên phú bẩm bị bất túc, mà yếu ớt, đoản hơi, hồi hộp, hễ vận động là suyễn thở miệng môi tím tái…
mặt khác có trường hợp do cảm nhiễm ngoại tà, bệnh tình phát triển. Điều trị không đúng cách hoặc điều trị không kịp thời cũng dẫn đến chứng tâm khí hư suy.
Đối với phụ nữ ngoài các chứng trạng nói trên còn do thai sản, kinh nguyệt, vì tâm khí hư hoả không sinh thổ mà dẫn đến tỳ hư, không thống nhiếp được huyết mạch nảy sinh chứng kinh nguyệt quá nhiều, băng lậu, khi sinh đẻ ra thường xuyên huyết, khí theo huyết thoát mà nảy sinh chứng huyễn vậng kéo theo ra chứng tâm khí hư suy.
ngoài ra thời tiết khí hậu cũng là một trong những nguyên nhén sinh ra chứng tâm khí hư suy như: Mùa hạ do quá nóng nực và dễ hao thương tân dịch, cho nên chứng tâm khí hư thường kèm theo chứng tâm âm bất túc. Mùa đông quá lạnh thì dễ tổn hao dương khí, tâm khí hư suy thường thấy ở chứng tâm dương bất túc.
Trong điều trị tuỳ theo tuổi tác, cơ địa và tác nhân kéo theo mà có phương pháp chẩn đoán và điều trị cho thích hợp.
4. Phân biệt chẩn đoán:
* Chứng tâm dương hư và chứng tâm khí hư suy:
Do công năng của tạng tâm bất túc dẫn đến cả hai chứng đều hư. Hai chứng này phần nhiều xuất hiện ở người lớn tuổi mắc bệnh lâu ngày làm cho tâm ngày càng hư suy. Có trường hợp do sử dụng thuốc hãm hạ quá mức làm cho dương khí của tâm bị tổn thương mà nảy sinh bệnh. Do dương khí bất túc, sức lưu thông kém, khí không đủ để vận chuyển huyết, huyết không đủ để chuyển tải khí, làm ch tâm thần mất đi sự ổn định công năng bảo vệ của tâm bị sút kém mà xuất hiện các triệu chứng như yếu sức, đoản hơi, hồi hộp, tự ra mồ hôi, mạch hư nhược, nhưng giữa hai chứng này thì chứng tâm dương hư suy nguy hiểm hơn chứng tâm khí hư suy.
Tạng tâm thuộc hoả, là thái dương trong dương tâm khí càng hư suy thì dẫn đến tâm dương hư, trong chứng tâm khí hư suy và chứng tâm dương hư thì chứng tâm dương hư có 2 đặc điểm nổi bật đó là tâm dương hư bao giờ cũng xuất hiện hàn chứng, cho nên tay chân thường lạnh, thân thể lạnh, do hàn làm ngưng trệ sự lưu thông của khí huyết, khác với chứng tâm khí hư suy thì huyết đi không lưu lợi nên vùng ngực đau, sắc mặt nhợt nhạt, tái xanh, môi tím tái, mạch trầm tế, hoặc trầm trì. Nội dung thứ hai là tâm dương hư nên không thể hoá khí thành thuỷ, cho nên dẫn đến chứng thuỷ ẩm ứ đọng ở bên trong mà sinh ra chứng đầu; mắt choáng váng, tiểu tiện ít không lợi, lưỡi trắng trơn, mạch trầm huyền, đó là những nội dung để phân biệt chẩn đoán giữa hai chứng.
* Chứng tâm huyết hư với chứng tâm khí hư suy:
Thạch xương bồ |
Nhưng cũng cần lưu ý, chứng tâm khí hư suy là do công năng vận hành của tạng tâm bất túc, kéo theo thần không có chủ nên huyết hoạt động không có lực mà xuất hiện các chứng như hồi hộp, đoản hơi, ngực đầy khó chịu ra mồ hôi, sắc mặt trắng nhợt, mạch tế, khác với chứng tâm huyết hư là chỗ chứa đựng của tâm không đủ, thần minh không giữ được bên trong cho nên chứng trạng chủ yếu là hồi hộp không yên, hay quên, sắc mặt xanh nhợt, ngủ kém, lưỡi nhạt, mạch tế vô lực.
* Đối với chứng tâm tỳ đều hư với chứng tâm tỳ khí hư suy
Cả hai chứng đều đặn có một tác nhân là do hao thương tâm khí. Do tâm khí hư suy cho nên sức yếu, mỏi mệt, hồi hộp, đoản hơi.
Đối với chứng tâm tỳ đều hư là do khí và huyết nên có liên quan đến hai tạng tâm và tỳ, có khả năng do tỳ hư việc hoá sinh đồ ăn thức uống kém và dẫn đến khí và huyết của tạng tâm suy kém. Hoặc do thận dương hư mà thận âm mất đi sự ấm áp, hoả không sinh được thổ mà kéo theo tỳ khí hư suy, thường xuất hiện các triệu chứng như: Đoản hơi, hồi hộp, kém ăn, bụng chướng đầy, ngủ kém, hay quên luôn mệt mỏi, đại thuận tiện phân nhão, hoặc phân lỏng, còn đối với chứng tâm khí hư suy thì không có các chứng trạng của chứng tỳ hư đó là những lý do để phân biệt chẩn đoán giữa hai chứng.
* Đối với chứng tâm phế khi hư với chứng tâm khí hư suy.
Vị trí của tâm và phế đều đặn ở thượng tiêu về sinh lý có quan hệ chặt chẽ với nhau nên khi sinh bệnh thường ảnh hưởng trực tiếp đến nhau. Chứng tâm phế khí hư thường xuất hiện từ từ và liên lụy đến phế, hoặc ho lâu ngày làm tổn hại phế, do phế khí hư kéo theo tâm khí hư mà hình thành chứng tâm phế khí hư, phế chủ khí chủ về hô hấp, bên ngoài hợp với bì mao Vì vậy chứng tâm phế khí hư thường xuất hiện các triệu chứng ho, thiếu khí, đoản hơi, suyễn, dễ cảm mạo, tâm hồi hộp, nếu bệnh nặng thì suyễn thở, miệng môi tím tái, không nằm được, mặt và tay chân phù thũng, chất lưỡi nhạt, mạch tế, đó là chứng tâm phế khí hư, khác với chứng tâm khí hư suy. Như vậy chứng tâm phế khí hư có chứng ho, thiếu khí nên nặng hơn chứng tâm khí hư suy.
* Đối với chứng tâm đởm khí hư với chứng tâm khí hư suy.
tác nhân là do khí của can đờm bị hư yếu, mộc không sinh được hoả mà dẫn đến tâm khí hư suy. Hoặc do tâm khí hư suy gây ảnh hưởng đởm, trong Đông y tâm chủ thần minh, đởm chủ quyết đoán, khi tâm khí yên ổn thì đởm khí không bị sa sút việc quyết đoán được dứt khoát. Vì vậy khí hư làm cho tâm thần không yên mà phát sinh sợ hãi hồi hộp không yên, có lúc hoảng hốt, xuất hiện chứng “Tâm đởm đều khiếp” làm việc gì cũng sợ hãi, khi ngủ hay mơ mộng hư phiền, ngủ kém mà dẫn đến đởm khiếp tâm hư.
Như vậy chứng tâm đởm khí hư là do khí cơ của can đởm không được xơ tiết, hoặc do tân dịch không được phân bố ngưng kết lại mà thành đờm trọc, hoặc do khí uất hoá hoả kết hợp với đàm nhiệt mà phát sinh bệnh, đó là những nhân tố khác nhéu giữa hai chứng.
5. Phương pháp điều trị:
5.1. Chứng kinh quý trong chứng tâm khí hư suy
Triệu chứng lâm sàng: bệnh nhân có cảm giác trong tâm rỗng không, bàng hoàng khó chịu, hay sợ sệt, tinh thần mỏi mệt, hồi hộp, đoản hơi ra mồ hôi, mạch vô lực hoặc kết đại.
Phương pháp điều trị: Dưỡng tâm, ích khí, an thần.
Bài thuốc thường sử dụng: Dưỡng tâm thang.
Hoàng kỳ 16g
Viễn chí 8g
Phục thần 12g
Chích thảo 4g
Xuyên qui 12g
Đại táo 12g
Xuyên khung 8g
Hoắc táo nhân 16g
Bạch linh 12g
Bá tử nhân 12g
Bán hạ 10g
Nhân sâm 8g
Nhục quế 4g
Sinh khương 4g
Ngũ vị tử 6g
Hoặc có khả năng sử dụng bài Quì tỳ thangđể điều trị.
Ngày uống 1 thang sắc 3 lần uống 3 lần trước khi ăn, uống khi thuốc còn ấm.
5.2. Chứng bất mị trong chứng tâm khí hư suy.
Triệu chứng lâm sàng: Thần thức lơ mơ, ban ngày buồn ngủ nhưng ban đêm lại tỉnh táo, hoặc ngủ được thì không thành giấc, khi thiếp đi thì thấy chiêm bao, có khi chiêm bao dẫn đến sợ hãi…
Phương pháp điều trị: Dưỡng tâm an thần.
Bài thuốc thường sử dụng: An thần định chí hoàn.
Phục thần 12g
Phục linh 12g
Nhân sâm 8g
Viễn chí 8g
Long xỉ 12g
Thạch xương bồ 8g
Chu sa vừa đủ làm áo.
Các vị thuốc trên tán bột làm viên, mỗi viên 6g, ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 2 viên trước khi ăn.
5.3. Chứng hung tý trong chứng tâm khí hư suy.
Triệu chứng lâm sàng: Đau vùng ngực từng cơn, tâm hồi hộp khó chịu, đoản hơi, suyễn chứng, mệt mỏi, ra mồ hôi.
Phương pháp điều trị: Tuyến tý, thông dương, ích khí.
Bài thuốc thường dùng: Nhân sâm thang.
Nhân sâm 12g
Can khương 8g
Bạch truật 12g
<?xml:namespace prefix=”st1″ ns=”urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags” ? ??> Camthảo 6g
Ngày một thang sắc uống lúc đói, tuỳ chứng và sức khoẻ của bệnh nhân mà gia hạn chế cho thích hợp.
có khả năng sử dụng bài Sinh mạch tán gia Giảm để điều trị
Nhân sâm 12g
Mạch môn 8g
Ngũ vị tử 8g
Ngày một thang sắc uống lúc đói, tuỳ theo chứng của bệnh nhân cũng có thể kết hợp giữa hai bài.
5.4. Chứng hoảng loạn trong chứng tâm khí hư suy.
Triệu chứng lâm sàng: Bệnh nhân bất an, tinh thần hoảng hốt, sợ ồn ào, thích nằm một mình, hay cười, hay khóc một cách thất thường, có khi nói lảm nhảm một mình.
Phương pháp điều trị: Ninh tâm, an thần.
Bài thuốc thường dùng: Thần sa diệu hương tán
Hoàng kỳ 16g
Xạ hương 2g
Hoài sơn 12g
Nhân sâm 12g
Phục linh 12g
Viễn chí 8g
Phục thần 12g
Mộc hương 16g
Cát cánh 8g
Chu sa 8g
Chích thảo 4g
Tuỳ chứng có thể gia hạn chế cho thích hợp. Ngày 1 thang sắc uống. Thần sa thuỷ phi khi thuốc nguội cho vào uống, uống lúc đói.
5.5. Do tâm khí hư suy xuất hiện chứng hư lao.
Triệu chứng lâm sàng: thiếu ngủ, mỏi mệt, đoản hơi, di mộng tinh, hay vã mồ hôi…
Phương pháp điều trị: Bổ ích tâm khí.
Bài thuốc thường dùng: Thập toàn đại bổ thang.
Nhân sâm 12g
Chích thảo 6g
Bạch truật 12g
Đương quy 8g
Bạch linh 12g
Thục địa 12g
Hoàng kỳ 12g
Bạch thược 10g
Nhục quế 6g
Xuyên khung 8g
Ngày một thang sắc uống, tuỳ chứng và sức khỏe của bệnh nhân có thể gia Giảm cho phù hợp, thuốc uống lúc đói, khi thuốc còn ấm.
Các câu hỏi về khí suy là gì
Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê khí suy là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết khí suy là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết khí suy là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết khí suy là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!
Các Hình Ảnh Về khí suy là gì
Các hình ảnh về khí suy là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư [email protected] Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé
Tra cứu dữ liệu, về khí suy là gì tại WikiPedia
Bạn có thể tham khảo thêm thông tin về khí suy là gì từ web Wikipedia tiếng Việt.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại???? Nguồn Tin tại: https://moki.vn/
???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://moki.vn/la-gi/
Các bài viết liên quan đến
Có thể ghép vs hồng quân ko chú